không có nguồn năng lượng nào khác ngoài năng lượng mặt trời và năng lượng gió, tuy nhiên họ có hệ thống lưu thông không khí mát qua các toà nhà và thường cung cấp nước lạnh và đá cho mùa hè nóng bức ở các vùng đất khô cằn của đất nước.
Môi trường bên trong một toà nhà hiện đại vẫn có thể rất dễ chịu cho dù môi trường bên ngoài có khắc nghiệt đến đâu. Nhìn chung nguyên nhân là do năng lượng được thoải mái cho làm nóng hay làm mát trong toà nhà. Tuy nhiên thời gian trước đây khi năng lượng chưa sẵn có và chưa có các loại máy móc như điều hoà nhiệt độ, người thiết kế những toà nhà này phải tính toán để tối đa hoá sự dễ chịu của môi trường bên trong. Ví dụ như kiến trúc truyền thống trong nhiều nền văn hoá ở nơi mà có khí hậu nóng bức suốt cả ngày nhưng ban đêm lại lạnh giá lại nổi bật với những toà nhà tường dày bằng gạch hoặc đá. Những bức tường như thế vừa cách nhiệt vừa giữ nhiệt vì thế trong suốt thời gian nóng bức ban ngày, lượng nhiệt từ môi trường bên ngoài từ từ đi vào môi trường bên trong và trong thời gian mát mẻ, một phần nhiệt trong tường làm ấm môi trường bên trong và phần nhiệt còn lại bị thoát ra môi trường bên ngoài. Kết quả cuối cùng là sự cân bằng thể hiện qua biểu đồ biến thiên nhiệt độ phẳng bên trong toà nhà. Trong giai đoạn chi phí năng lượng của toà nhà đang được đánh giá lại một cách chính xác, rõ ràng những tính toán như vậy đáng được xem xét kĩ lưỡng.
Ở Iran, thiết kế những toà nhà truyền thống đã không chỉ làm phẳng biểu đồ biến thiên nhiệt độ: họ cho lưu thông không khí mát trong toà nhà và thậm chí có thể giữ nước lạnh và đóng băng từ mùa đông trên tận những vùng đồng bằng miền Trung và miền Đông có mùa hè dài nóng bức. Họ làm như vậy mà không cung cấp bất kỳ năng lượng nào ngoài năng lượng tự nhiên: vì thế chúng có thể được mô tả như hệ thống làm mát tự động. Một số hệ thống trong đó, ví dụ như hệ thống mái cong được kết hợp chặt chẽ trong các công trình từ năm 3000 trước Công nguyên, những hệ thống khác như hệ thống tháp gió, bình chứa và máy làm đá có khả năng vẫn chưa xuất hiện cho đến tận năm 900 sau Công nguyên. Hiện nay nhiều hệ thống làm lạnh tự động vẫn còn được sử dụng. Hệ thống làm mát tự động có nhiều dạng. Ví dụ như công trình ở những vùng khô cằn ở Iran theo truyền thống được xây dựng thành từng cụm và nối với nhau bằng tường chung. Việc cung cấp lượng bức xạ mặt trời lớn thể hiện rõ khí hậu trong những ngày hè. Xây dựng cụm công trình làm giảm thiểu tổng diện tích bề mặt, bằng cách này giảm nhiệt bức xạ mặt trời hấp thụ vào.(Cũng dễ dàng hơn để bảo vệ các cụm công trình). Số lượng cửa ra vào và cửa số làm hạn chế sự trao đổi nhiệt với không gian bên ngoài.
Mặc dù khí hậu ban ngày vào mùa hè ở những vùng đất cằn cỗi này vô cùng nóng bức, nhưng ban đêm lại lạnh. Một số đặc điểm của kiến trúc truyền thống Iran được thiết kế để tận dụng lượng nhiệt lớn vào ban ngày. Giống như tường ở nơi có khí hậu tương tự, các công trình này có tường được xây bằng gạch sống và đặc biệt dày, để có nhiệt dung cao. Vì thế, chúng có thể hấp thụ nhiệt bức xạ mặt trời hàng ngày thay vì truyền nhiệt ngay vào bên trong toà nhà. Nhiệt được giữ trong tường và sau đó đi vào bên trong toà nhà và vào không khí lạnh ban đêm.
Theo cách khác, kiến trúc Iran còn dùng sân nhỏ trồng cây và bui rậm để khai thác không khí lạnh ban đêm. Việc trồng cây bảo vệ tường các phòng mở ra sân trong nhằm giảm bớt nhiệt bức xạ mặt trời trên tường. Trong vài giờ buổi sáng, tường và cây trồng vẫn được mát mẻ.
Trước đây, mọi người sống ở các toà nhà tại những vùng đất khô cằn của Iran cũng có cách để đạt được sự thoải mái nhất. Ví dụ như nhiều người sống dưới tầng hầm, đặc biệt trong suốt những buổi chiều mùa hè nóng nực, bởi vì nhiệt độ lòng đất tương đối thấp giữ cho tầng hầm lạnh.Vào những buổi đêm mùa hè mát mẻ, nhiều người ngủ trên mái nhà: mái có lan can cao để đảm bảo sự riêng tư, và lan can cũng bảo vệ cho mái khỏi gió bụi mùa hè. Hơn nữa phố xá lại chật hẹp, nên lan can còn che bóng râm cho những toà nhà lân cận (và khách bộ hành), làm giảm nhiều lượng nhiệt bức xạ mặt trời.
Những cách tiếp cận này đã làm giảm bớt sự khắc nghiệt của khí hậu, nhưng bốn hệ thống làm mát tự động thông minh thậm chí còn làm được nhiều hơn thế. Chúng là tháp gió, lỗ thông hơi, bể chứa nước và máy làm đá. Tôi sẽ lần lượt mô tả lại ngắn gọn mỗi hệ thống.
Những vùng đất khô cằn ở Iran có các mẫu gió hàng ngày và tương đối cố định theo mùa. "Máy hút gió," hay tháp gió, lợi dụng gió thường thổi vào mùa hè để làm mát không khí và lưu thông gió trong một toà nhà. Tháp gió điển hình nhìn giống như ống khói, một đầu kết thúc ở tầng hầm của toà nhà và đầu kia nhô lên khỏi mái. Phần trên của tháp được chia ra thành một số hành lang thông gió thẳng đứng kết thúc tại lỗ cửa ở các mặt của toà tháp. Các mẫu thiết kế khác nhau ở độ cao của tháp, khu vực qua hành lang thông gió, sắp đặt và số lượng lỗ cửa và bố trí toà tháp với kết cấu mà nó làm lạnh.
Tháp gió hoạt động bằng cách thay đổi nhiệt độ và mật độ không khí bên trong và xung quanh toà tháp. Sự khác biệt về sức hút, đẩy không khí lên hoặc xuống qua toà tháp. Cửa ra vào ở phần dưới của toà tháp mở xuống tầng hầm hay chặn cửa ra vào từ tháp và cửa phòng xa hội trường trung tâm.
Hoạt động của toà tháp phụ thuộc vào điều kiện gió và thời gian trong ngày. Khi ban đêm không có gió, tháp hoạt động giống như ống khói, lưu thông không khí bằng cách đưa không khí lên trên và đấy ra ngoài qua lỗ cửa của tháp. Tháp hoạt động như sau. Tường tháp (gồm có tường trong ngăn cách các hành lang thông gió) hấp thụ nhiệt suốt cả ngày. Vì dòng nhiệt đi theo hướng giảm nhiệt độ, tường truyền nhiệt đến không khí mát buổi đêm và xung quanh tháp. Hình dáng của phần trên toà tháp, là độ dày của tường và mặt cắt ngang hành lang thông gió, được thiết kế để cung cấp đủ dung lượng nhiệt và khu vực truyền nhiệt để hoạt động. Vì không khí ấm hơn sẽ thông thoáng hơn, áp suất không khí ở đỉnh tháp sẽ bị giảm đi, tạo ra lực hút lên trên. Không khí bên trong toà nhà được hút lên trên qua tháp, và không khí lạnh bên ngoài sẽ bị đẩy vào bên trong toà nhà qua cửa ra vào và cửa sổ. Quá trình tiếp diễn suốt đêm để lưu thông không khí mát qua toà nhà.
Khi buổi đêm có gió, không khí buộc phải lưu thông theo hướng ngược lại, các phòng được làm mát bằng không khí ban đêm toả xuống từ tháp chứ không qua cửa ra vào và cửa số. Tại đây mặc dù không khí ban đêm được sưởi ấm bằng tường tháp trước khi đi vào toà nhà. Việc làm mát có thể vẫn đủ hiệu quả để toả nhiệt năng lượng mặt trời dự trữ vào trời đêm để sau đó làm mát toà nhà. Vì bầu trời có xu hướng rất thoáng đãng vào ban đêm nên việc chuyển giao nhiệt bức xạ vào bầu trời buổi đêm có hiệu quả rất cao.
Khi suốt cả ngày không có gió, hoạt động của tháp người ngược lại với ống khói. Tường phần trên tháp đã được làm mát suốt cả đêm hôm trước. Không khí nóng bên ngoài tiếp xúc với chúng và được làm mát. Dày đặc hơn không khí nóng, không khí được làm lạnh lặn xuống dưới qua tháp, tạo ra dòng hút xuống. Không khí được làm lạnh bị đẩy qua toà và cuối cùng đi ra khỏi cửa ra vào và cửa sổ, hút theo không khí trong phòng.
Khi cả ngày có gió, tốc độ lưu thông sẽ tăng lên. Sắp đặt hợp lý cửa ra vào trong tháp và trong các phòng giúp cho không khí mát có thể được lưu thông qua bất cứ phòng nào. Nếu cả ngày không có gió, khi nhiệt độ tháp đạt được nhiệt độ không khí bên ngoài, lưu thông gió qua tháp và vào trong toà nhà dừng lại và tháp bắt đầu hoạt động giống như ống khói. (Tất nhiên là tháp không hoạt động liên tục suốt ngày đêm: hiệu quả làm mát và khoảng thời gian của mỗi giai đoạn hoạt động của tháp thay đổi theo sự dao động nhiệt độ không khí, cường độ bức xạ mặt trời, vận tốc gió...)
Lỗ cửa ở phần trên của tháp được xếp thành các cặp để có một cửa chắn gió cho mọi cửa ở hướng gió thổi. Khi cửa ra vào ở phần thấp hơn của tháp bị đóng lại, gió xuống dưới tháp bị thối ngược trở lại lên hành lang thông gió và ra ngoài qua cửa chắn gió. Thực tế thậm chí khi cửa ra vào trong tháp được mở, một lượng không khí xuống tháp bị nén ngược lên trên tháp sẽ thoát ra qua các lỗ cửa này. Lực hút lên trên được hình thành ở các hành lang đối diện hút không khí vào phòng qua các cửa chắn gió. Bằng cách này, tháp tạo ra một vòng tuần hoàn không khí liên tục qua toà nhà.
Gần đây tôi chỉ thảo luận về những thay đổi nhiệt độ trong tháp đo gió vì cái được gọi là làm mát cảm biến. Làm mát cảm biến diễn ra khi nhiệt độ không khí thay đổi mà độ ẩm không thay đổi. Làm mát cảm biến xảy ra khi nhiệt độ và độ ẩm thay đổi, và có thể đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của tháp đo gió. Ví dụ, khi tường bao tầng hầm của tháp bị ẩm, thông thường như trường hợp này, không khí đi xuống dưới tháp được làm mát bằng cảm biến và bằng hơi nước. Nói cách khác, nước trong tường hấp thụ nhiệt và bốc hơi. Vì sự bốc hơi cần lượng nhiệt tương đối lớn, tháp đo gió kết hợp quá trình bốc hơi có thể làm mát không khí khá hiệu quả. Thực tế, trước khi tủ lạnh được sử dụng rộng rãi ở Iran, tầng hầm ẩm của tháp đo gió có tác dụng như là một khu vực bảo quản lạnh. Hơn thế nữa, việc làm ẩm không khí cùng với quá trình bốc hơi đóng góp quan trọng vào việc tạo cảm giác dễ chịu ở nhiệt độ thấp hơn. Một cách tận dụng làm mát không khí bằng hơi là đặt một hồ nước nhỏ có vòi phun nước ở đáy tháp đo gió. Gió có thể được làm mát cảm biến hay bằng hơi đi xuống dưới tháp và sau đó được hồ nước làm mát bằng hơi nước trước khi gió thổi vào các phòng của tòa nhà. Có nhiều tòa nhà có loại tháp này tại thành phố Yazd, Iran. Tháp đo gió ở thành phố Barn được dùng theo một cách khác. Tháp được đặt cách tòa nhà khoảng 50m và đường ngầm chạy từ đáy tháp lên tầng hầm của toà nhà. Đất bên trên đường ngầm được trồng cây, bụi cây và cỏ. Khi đất được tưới nước, nước thấm tràn qua đất để tường bao đường ngầm được giữ ẩm, và không khí đi xuống dưới tháp và đi qua đường ngầm được làm mát cảm biến và bằng hơi nước. Hồ nước và vòi nước nơi không khí được làm mát đi vào tầng hầm làm mát hơn.
Một loại tháp gió khác hoạt động kết hợp với các dòng suối ngầm. Ống thông thẳng đứng chạy từ dòng nước lên tầng hầm của toà nhà, và tháp được đặt sao cho gió đi từ cửa ra vào tầng hầm tháp đi qua đỉnh của ống. Khi không khí chạy qua một hành lang rộng đi vào một hành lang nhỏ hơn, vận tốc không khí tăng và áp suất giảm. Diện tích mặt cắt ngang của tháp lớn hơn với diện tích mặt cắt ngang cửa ra vào, và vì thế áp suất không khí của tháp vẫn giảm khi nó đi qua đầu ống. Khi không khí từ tháp đi với vận tốc lớn qua đầu ống, một điểm hút được tạo ra tại đó. Kết quả là không khí từ ống được hút vào dòng không khí trong tháp.
Không khí đi vào đường ống dẫn dòng nước ngầm đi qua các đường ống khác nối hành lang với bề mặt. Vì nước ngầm thường lạnh, không khí đi qua bề mặt được làm mát hiệu quả, và vì thế tốc độ làm mát của hệ thống tháp tạo gió hoạt động cùng với nước ngầm xung quanh khá cao. Ở đây không khí ở điểm hút đủ mát để đồ ăn thường được dự trữ phía gần cửa ống. Việc làm mát có hiệu quả vào những đêm không có gió. Khi tháp hoạt động giống như ống khói: bên ngoài không khí thổi qua dòng nước thổi qua dòng nước ngầm, nơi được làm mát bằng hơi nước và làm mát cảm biến và sau đó qua ống vào toà nhà. Nó kết hợp với không khí tầng hầm và cuối cùng được mở lỗ thông từ trên đỉnh tháp.
Một vấn đề với tháp gió là chúng có bụi, côn trùng và chim chóc vào toà nhà. Những toà tháp mới hơn được trang bị màn che ít nhất để tránh côn trùng và chim chóc. Những toà tháp cao hơn thì có ít bụi hơn, nhưng để xây dựng và bảo quản nó thì khá tốn kém. Một cách khác để tránh cho toà nhà khỏi bụi là xây dựng một toà tháp có nền rộng hơn phần còn lại của tháp. Tăng diện tích mặt cắt ngang của luồng không khí làm giảm vận tốc gió ở đáy tháp, để cho bụi bám lại trên gíá được gọi là hộp gom bụi. Việc đặt các lỗ cửa ở đỉnh tháp có thể kiểm soát được sự hút bụi, ở những khu vực mà gió bụi thổi theo một hướng và gió bụi tự do thổi theo hướng mà các lỗ cửa được đặt theo. Giống như vậy, ở những khu vực có gió thổi, các lỗ cửa được đặt để tận dụng gió.
Tháp đo gió vẫn đang được sử dụng ở Iran và thậm chí còn gồm có một số toà nhà mới. Tất nhiên chúng chỉ được dự định sử dụng trong mùa hè và phải được đóng cửa hợp lí vào mùa đông. Ví dụ như ở Barm, tháp được bao kín bằng tường dày. Nếu không đóng cửa tháp vào mùa đông, sự tiêu hao lượng nhiệt hấp thụ vào tăng kên đáng kể, có nghĩa là lượng thất thoát vào không khí lạnh bên ngoài đã tràn vào toà nhà.
Tháp gió có thể được dùng cùng với mái vòm, một sự dễ chịu trong khí hậu mùa hè nóng bức ở Iran. Mái vòm hay hình trụ có nhiều ưu điểm hơn mái bằng. Chúng vốn chắc chắn hơn: vì thế chúng có thể được sản làm nhẹ hơn và không yêu cầu sự trợ giúp của dầm gỗ, thứ rất hiếm ở các khu vực sa mạc. Hơn nữa, không khí nóng tập trung dưới mái vòm ở căn phòng để ở có mái che. Bằng cách này, căn phòng giữ được cảm giác dễ chịu, và lượng nhiệt truyền từ mái vào phòng được hạn chế vì nhiệt độ cao bên cạnh mái được duy trì.
Bất cứ mái nào hấp thụ nhiệt mặt trời bằng bức xạ, mái bằng và mái vòm của cùng một khu vực thì cũng hấp thụ lượng bức xạ mặt trời như nhau. Tuy nhiên, mái nhà mất đi phần lớn lượng nhiệt của nó là do bức xạ chứ không phải do sự đối lưu: có nghĩa là, lượng nhiệt tiêu hao chủ yếu phụ thuộc vào sự di chuyển của không khí qua mái. Mái vòm có lượng nhiệt đối lưu và truyền nhiệt cao hơn mái bằng. Vì thế mái vòm có thể được làm mát dễ dàng hơn.
Mái vòm đạt hiệu quả cao nhất khi kết hợp với lỗ thông hơi. Hoạt động của lỗ thông hơi phụ thuộc vào thực tế là luồng không khí qua vật thể hình trụ và hình cầu, vận tốc ở đỉnh của một vật tăng lên: kết quả là áp suất ở đỉnh giảm xuống. Nếu có một lỗ hổng ở đỉnh của mái hình trụ hay mái vòm, sự khác nhau về áp suất làm cho không khí nóng ở dưới mái đi qua lỗ thông. Vì chức năng của lỗ thông phụ thuộc vào luồng không khí đi qua bề mặt cong, mái có lỗ thông hơi được định hướng để đường cong của gió lớn nhất. Ở những khu vực có gió, mái hình trụ được xây dựng với trục vuông góc hình trụ theo hướng gió, ở những khu vực có gió thổi theo tất cả mọi hướng mái vòm dùng. Lỗ thông hơi thường đặt trên phòng khách của toà nhà.
Một hệ thống làm mát tự động của bộ ba bình chứa kết hợp một số hệ thống tự động khác. Bình chứa là một bể chứa sâu 10-20m, chìm dười lòng đất, được mái vòm che phủ và xung quanh là một số tháp đo gió khác. Tại một số khu vực thuộc đồng bằng khô cằn của Iran, nước từ trên cao nguyên được đưa xuống qua hệ thống ống dẫn nước gọi là ganats. Mục đích của bình chứa là để giữ nưởc mức nhiệt độ thấp hợp lý trong suốt những tháng mùa hè. Bản thiết kế bình chứa tận dụng sự thay đổi nhiệt độ theo mùa ở sa mạc và tính chất cách nhiệt của đất.
Ở khu vực Iran khô cằn, ban đêm rất lạnh. Vào mùa đông nước lạnh được chứa trong bình, làm đầy một phần bình chứa. Vào mùa hè, mái vòm của bình được là ấm, và vì không khí và lớp nước trên cùng trong bình. Trước khi lớp nước dưới sâu hơn được làm ấm, tuy nhiên nước ở lớp nướcc phía trên mặt bốc hơi và nước bốc hơi được đưa đi bởi một ống dẫn qua bề mặt, được duy trì bằng tháp đo gió. Bằng cách này nước được giữ mát.
Hệ thống làm mát bằng bình chứa hoạt động theo một trong hai cách này. Nếu hệ thống này có mái vòm với lỗ thông hơi ở trong, không khí đi xuống dưới tháp đo gió, qua nước và lên trên qua lỗ thông hơi. Luồng không khí hút hỗn hợp không khí và hơi nước dưới mái. Tuy nhiên nếu bình chứa có lỗ thông hơi, bụi, côn trùng và những thứ khác có thể sa vào và làm bẩn nước, và vì vậy một số bình chứa được cấu tạo không có lỗ thông hơi. Trong những bình chứa này, luồng không khí từ tháp bị ngắn mạch: không khí đi qua hành lang ở một mặt của tháp và quay ngược trở lại qua hành lang ở một mặt khác, hút hốn hợp không khí và hơi nước trong bình chứa và đưa nó đi qua lỗ cửa ở mặt khuất gió của tháp. Bình chứa của cả hai loại hiện tại đều không được sử dụng nhiều bởi vì mặc dù nước do các bình chứa này cung cấp lạnh vừa lạnh vừa tù đọng bởi thế không an toàn cho người sử dụng trực tiếp.
Hệ thống bình chứa hoạt động hiệu quả bằng cách dự trữ năng lượng từ mùa này qua mùa khác. Nhiều hệ thống làm mát và sưởi tự động hoạt động theo nguyên tắc này. Một ví dụ khác là hệ thống làm đá tự động truyền thống của Iran. (Giống như bể chứa, máy làm đá đã bị bỏ vì lí do sức khoẻ.) Ở những vùng đất khô cằn của Iran, vào mùa đông nhiệt độ không khí vào ban đêm thường chỉ trên mức đóng băng vài độ. Với một chiếc máy làm đá, có thể sản xuất đá vào mùa đông và dữ trữ cho mùa hè. Hệ thống này phụ thuộc vào sự tiêu hao bức xạ lên bầu trời buổi đêm mùa đông lạnh thoáng đãng.
Máy làm đá gồm có một hầm dự trữ lớn sâu 10-15m và một cái ao tam giác nông, rộng 10-20m trên trục Bắc - Nam và dài vài trăm mét ở trục Đông Tây. Một bức tường gạch sống đang được xây dựng ở mặt phía Nam của mỗi bể nước, đủ cao để toả bóng râm lên toàn bộ chiều rộng của bể trong suốt quá trình làm đá. Tường bao phía Đông và phía Tây ở cuối bể thấp hơn để che chắn cho bể không bị bức xạ mặt trời vào sáng sớm và chiều muộn.
Hệ thống làm mát tự động khai thác đặc điểm của khí hậu cần khắc phục. Vì lí do này hệ thống làm mát tự động và thông hơi của Iran không thể ứng dụng bất kì ở các khu vực khác trên thế giới. Tuy nhiên trong khí hậu tương tự với khí hậu ở Iran và bất cứ nơi nào để cung cấp nước lạnh và đá cho mục đích khác hơn là mục đích sử dụng trực tiếp của con người, những hệ thống này có thể hoạt động tốt, tuy nhiên trong khí hậu tương tự với khí hậu ở Iran và bất cứ nơi nào để cung cấp nước lạnh và đá cho mục đích khác hơn là mục đích sử dụng trực tiếp của con người.
Ở các khí hậu nơi mà hệ thống làm mát tự động của Iran không thế áp dụng được, chúng vẫn được quan tâm. Những hệ thống này thể hiện khả năng kết hợp cùng hơn là đi ngược lại với môi trường bên ngoài. Trong tương lai, các kiến trúc sư và kĩ sư sẽ cần tính thêm đến khí hậu và có thể kiểm tra khả năng của khí hậu với hệ thống sưởi, làm lạnh và thông hơi tự động. Với thông tin này, họ có thể thiết kế những toà nhà có nội thất tiện nghi nhưng lại tiêu thụ lượng năng lượng ít nhất.
Dịch & biên tập: Vương Đạo Hoàng Nguồn:- Bahadori, Mehdi N. (February 1978). "Passive Cooling Systems in Iranian Architecture". Scientific American 238 (2): 144–154. doi:10.1038/scientificamerican0278-144. Retrieved 2007-07-17.
Cảm ơn bạn đã đăng lên các thông tin rất hữu ích!
Trả lờiXóa